Nobel cho lĩnh vực kinh tế không thuộc cơ cấu giải thưởng ban sơ trong chúc thư của nhà kỹ thuật Thụy Điển – Alfred Nobel. Giải này được bổ sung từ năm 1968, nhân kỷ niệm 300 năm thành lập Ngân hàng Trung ương Thụy Điển – Sveriges Riksbank, cũng là tổ chức đóng góp quỹ cho giải thưởng này. Người được xướng tên năm nay là nhà kỹ thuật người Mỹ Richard H.Thaler.
Mỹ hiện cũng là đất nước cai trị giải thưởng này. Xu hướng này được dự đoán sẽ còn tiếp diễn trong thời kì hơi dài nữa.
Kể từ lần trao giải ban đầu năm 1969, chỉ 12 năm là không có sự xuất hiện của người Mỹ. Sự cai trị này những năm vừa qua càng ngày càng rõ rệt. Nhiều người giành giải không sinh ra và lớn lên ở Mỹ, nhưng học tập, làm cho việc và có quốc tịch Mỹ. Thậm chí, các ứng cử viên được dự đoán giành giải hằng năm cũng đều có liên đới đến các trường Đại học Mỹ.
![]() |
Richard H.Thaler nhận giải Nobel Kinh tế năm nay. Ảnh: Chicago Booth Magazine |
Năm ngoái, hai nhà kỹ thuật giành giải Nobel Kinh tế là Oliver Hart và Bengt Holmström. Oliver Hart sinh ra tại London (Anh), nhưng học tập, làm cho việc và hiện là công dân Mỹ. Ông là giáo sư kinh tế của Đại học Harvard. Trong khi đó, Bengt Holmstrom là công dân Phần Lan, nhưng cũng cư trú lâu dài (permanent resident) tại Mỹ. Ông đang giảng dạy tại Học viện Công nghệ Massachusetts.
Một bài phân tách trên Christian Science Monitor từ năm 1995 chỉ ra rằng hiện tượng trên đề đạt sức mạnh kỹ thuật của nền kinh tế số 1 toàn cầu. Chính phủ Mỹ dành rất nhiều tiền cho các hoạt động nghiên cứu basic. Các dụng cụ truyền thông tăng trưởng, như Internet, cũng giúp việc cộng tác thuận tiện hơn, đặc trưng với các nhà nghiên cứu tại các nước đang tăng trưởng.
“Hệ thống nghiên cứu của Mỹ vẫn đang bỏ rất xa các nước hơic”, Philip Schewe – chủ biên tin báo chuyên ngành Physical Review Letters thời đó nhận xét.
Một số nhà phân tách thì cho rằng Mỹ còn hưởng lợi lớn từ sự xuất hiện của chủ nghĩa Phát xít và bài Do Thái ở châu Âu cách đây vài thập kỷ. Việc này đã làm cho nhiều nhà kỹ thuật bậc nhất châu Âu, như Albert Einstein, Niels Bohr hay Enrico Fermi phải thiên cư sang Mỹ.
Sau Đại chiến Thế giới II, Washington khởi đầu gây dựng chiến dịch hỗ trợ nguồn vốn lớn chưa từng có cho nghiên cứu kỹ thuật. Trong khi đó, châu Âu, Nhật Bản và Liên Xô thời đó vẫn còn chật vật tái thiết nền kinh tế hậu chiến. “Chúng tôi đã thành công trong việc tạo ra 1 nền kỹ thuật và khoa học được cấp vốn phần lớn. Việc đó đã giúp người Mỹ giành giải”, Stephen Brush – nhà sử học tại Đại học Maryland cho biết trên CSM.
Tính đến năm 1995, nửa số người Mỹ được giải Nobel đang làm cho việc cùng, hoặc dưới quyền những người từng nhận giải này. Harriet Zuckerman – tác giả 1 nghiên cứu về các nhà kỹ thuật từng giành Nobel giảng giải: “Đây là 1 phát hiện rất không thể lãng quên. Theo lẽ ngẫu nhiên, người nhiều năm kinh nghiệm thì luôn bị lôi kéo bởi người nhiều năm kinh nghiệm thôi”.
Forbes cũng đồng tình với quan niệm của CSM. Tạp chí này nhận định Mỹ cai trị giải Nobel nhờ dẫn đầu về nghiên cứu kỹ thuật, xét duyệt các khoản hỗ trợ phóng khoáng của Chính phủ, các giải pháp khuyến khích giáo dục bậc cao, sự linh động trong chính sách lôi kéo nhân kiệt khắp toàn cầu và các trường đại học cũng như các quỹ phong lưu sẵn sàng chi tiền cho nghiên cứu trong dài hạn.
Không chỉ kinh tế, người Mỹ còn giành nhiều giải Nobel hơn các nước hơic trong cả lĩnh vực Vật lý, Hóa học và Y tế, bắt đầu từ sau Thế chiến II. Giai đoạn 1935 – 2014, năm nào cũng có ít ra 1 người Mỹ giành Nobel. Trong khi đó, trong 6 năm đầu trao giải, người Mỹ hoàn toàn vắng bóng.
Danh sách những người đoạt giải Nobel Kinh tế các năm 2000 – 2016:
Năm |
Người đạt giải |
Công trình |
Quốc gia |
2016 |
Oliver Hart và Bengt Holmström |
Lý thuyết ký kết |
Mỹ và Phần Lan |
2015 |
Angus Deaton |
Nghiên cứu về mối quan hệ giữa dùng, đói nghèo và phúc lợi. |
Mỹ |
2014 |
Jean Tirole |
Cách thức điều hành các tập đoàn, doanh nghiệp lớn trên thị phần. |
Pháp |
2013 |
Eugene F. Fama, Lars Peter Hansen, Robert J. Shiller |
Phân tích giá của cải |
Mỹ |
2012 |
Alvivin E.Roth và Lloyd S.Shapley |
Lý thuyết cung ứng ổn định và thực tiễn về tạo dựng thị phần |
Mỹ |
2011 |
Thomas J. Sargent và Christopher A. Sims |
Mối quan hệ giữa chính sách kinh tế vĩ mô và ảnh hưởng của chúng lên nền kinh tế |
Mỹ |
2010 |
Peter A. Diamond, Dale T. Mortensen và Christopher A. Pissarides |
Công thức mới cho sự tương tác trên thị phần, giữa bên có sản phẩm, nhà sản xuất, việc làm cho… với bên đi mua kiếm. |
Anh và Mỹ |
2009 |
Elinor Ostrom và Oliver E. Williamson |
Phương thức điều hành nền kinh tế |
Mỹ |
2008 |
Paul Krugman |
Tác động của lợi thế quy mô tới các mô phỏng thương nghiệp và địa điểm diễn ra các hoạt động kinh tế |
Mỹ |
2007 |
Leonid Hurwicz, Eric S. Maskin và Roger B. Myerson |
Học thuyết phác thảo cơ chế |
Mỹ |
2006 |
Edmund S. Phelps |
Mối quan hệ giữa lạm phát và thất nghiệp |
Mỹ |
2005 |
Robert J. Aumann và Thomas C. Schelling |
Xung đột và cộng tác xét duyệt phân tách “Lý thuyết game” |
Mỹ |
2004 |
Finn E. Kydland và Edward C. Prescott |
Sự hợp lực về thời kì của chính sách kinh tế và lực đẩy phía sau chu kỳ buôn bán |
Na-uy và Mỹ |
2003 |
Robert F. Engle III và Clive W.J. Granger |
Phân tích số liệu kinh tế theo chuỗi thời kì ARCH và đồng hiệp lực |
Anh và Mỹ |
2002 |
Daniel Kahneman và Vernon L. Smith |
Ứng dụng ý lý học vào kinh tế và Phân tích kinh tế thực nghiệm |
Mỹ |
2001 |
George A. Akerlof, A. Michael Spence và Joseph E. Stiglitz |
Phân tích thị phần với tin tức phi đối xứng |
Mỹ |
2000 |
James J. Heckman và Daniel L. McFadden |
Lý thuyết và cách thức phân tách tuyển chọn rời rạc |
Mỹ |
Hà Thu(tổng hợp)