Quốc hữu hóa – cụm từ được dùng cho hàng loạt các của cải trên rất nhiều lĩnh vực trong nền kinh tế, từ các trang trại, siêu thị, nhà băng, tổ chức viễn thông, năng lượng, khai thác dầu lửa, các tổ chức cung cấp xi măng, cà phê thậm chí là cả các tổ chức cung cấp ly thủy tinh. Và những công ty này khi đã bị quốc hữu hóa sẽ phải tuân theo những quy định, trong đó đáng chú ý là việc định giá mặt hàng.
Nói nôm na, báo giá mặt hàng với những công ty này sẽ do nhà nước quy định, điển hình của nền kinh tế bao cấp mục tiêu – loại hình đã phần đông biến mất hoàn toàn trên toàn cầu và được thay thế bằng kinh tế thị phần.
Việc định giá 1 cách bất cập và vô lý đã giết thịt chết phần đông các lĩnh vực và lĩnh vực trong nền kinh tế Venezuela. Bộ luật độc đáo mang tên “Luật về giá tiền và báo giá công bằng” của chính phủ Venezuela là tình đầu gây ra sự tan hoang cho toàn bộ các lĩnh vực kinh tế. Vì bộ luật này, mà nền cung cấp ở Venezuela phần đông bị phá vỡ hoàn toàn, dẫn tới quốc gia Nam Mỹ này phải phụ thuộc vào nguồn mặt hàng du nhập, được chi trả bằng đồng USD từ việc bán dầu lửa..
Ở thời điểm đó, việc quốc hữu hóa các của cải lớn, cộng với việc ban hành luật định giá mặt hàng được Chính phủ Venezuela giảng giải nhằm hướng phân khúc người nghèo trong nỗ lực thúc đẩy uy tín cuộc sống của họ. Khi báo giá các loại mặt hàng không thể xem nhẹ được chính phủ quy định phải chăng hơn mức thị phần, thì sẽ càng nhiều người nghèo được hưởng các điều kiện sống tốt hơn.
Tuy nhiên, điều này cũng giống như “con dao hai lưỡi”, việc triệt tiêu phòng ban cung cấp làm người dân không có điều kiện gia tăng thu nhập. Khi mà khủng hoảng xảy ra, Chính phủ không còn tiếp diễn trợ giá hoặc du nhập các mặt hàng không thể xem nhẹ sẽ đẩy cả quốc gia vào 1 sự khủng hoảng toàn diện. Rõ ràng lúc đó hậu quả sẽ lớn hơn rất nhiều so với số người nghèo được hưởng lợi từ các chính sách trợ giá kỳ quặc.
Và câu chuyện này không chỉ xuất hiện trên giả như.
Khi giá dầu khởi đầu lao dốc trong năm 2014. Mặc dù Venezuela được mệnh danh là quốc gia có trữ lượng dầu lớn nhất toàn cầu nhưng vấn đề ở đây là dầu là nguồn đem đến kế quả kinh doanh độc nhất của quốc gia này. Kim ngạch xuất khẩu từ dầu chiếm hơn 95% kế quả kinh doanh từ hoạt động xuất khẩu của Venezuela. Nếu quốc gia này không bán dầu thì cũng chẳng có tiền để xài.
Trong năm 2014, giá dầu đã vượt mốc 100 USD 1 thùng. Thế nhưng ngay sau đó, “vàng đen” đã liên tục lao dốc, thậm chí chạm mức phải chăng nhất chỉ 26 USD mỗi thùng.
Việc tiêu hao tiền vào những chính sách kinh tế mang tính cực tả làm kho dự trữ của Venezuela không dồi dào như những cường quốc dầu lửa khác. Thời điểm năm 2011, dự trữ của quốc gia này cũng chỉ khoảng 30 tỷ USD.
Khi nguồn thu ngoại tệ không đủ cân đối, điều thế tất là trạng thái thiếu hụt các mặt hàng sử dụng không thể xem nhẹ – vốn chỉ đến từ du nhập. Ở Venezuela thứ không tăng giá chỉ còn lại xăng, thậm chí được ví là “rẻ hơn nước lạnh”.
Một thực tại cũng chứng minh cội nguồn sâu xa dẫn tới khủng hoảng của Venezuela nằm ở nội tại của nền kinh tế, là không có quốc gia xuất khẩu dầu lửa nào lại rơi vào tình cảnh tương tự như Venezuela. Giá dầu giảm chỉ có thể làm tốc độ tăng trưởng của 1 quốc gia sụt giảm và chính phủ sẽ chỉ phải dây lưng buộc bụng.
Bản thân chính quyền của ông Maduro trong vài năm vừa mới đây cũng chọn cách trả nợ cho Trung Quốc và Nga thay vì mua thực phẩm, thuốc men từ nước ngoài. Venezuela du nhập đồ ăn cốt yếu từ Brazil, Colombia và Mexico, vì nước này đã dừng cung cấp nông nghiệp cách đây vài năm. Tuy nhiên, theo nhà sản xuất nghiên cứu Panjiva, trong 5 tháng đầu năm nay, xuất khẩu lương từ thực 3 nước này sang Venezuela đã giảm 61% so với cùng kỳ 2015.
Đến giữa năm 2017, lượng dự trữ ngoại tệ theo công bố của Ngân hàng Trung ương Venezuela chỉ còn chưa tới 10 tỷ USD, bằng 1 nửa so với trước đó 1 năm.