Theo báo cáo của Công ty cổ phần Nghiên cứu ngành nghề và Tư vấn Việt Nam (VIRAC), du nhập dược phẩm của Việt Nam đang có khuynh hướng tăng mạnh trong những năm vừa mới đây. Năm 2016, trị giá du nhập dược phẩm ước tính khoảng 2,5 tỷ USD, tăng 10% so với năm trước.
Với 1 nền kinh tế đang có tốc độ tăng trưởng cao, thu nhập gia tăng khiến cho người dùng mạnh tay hơn cho các khoản giá thành liên đới đến sinh hoạt và y tế. Điều này cũng được củng cố khi khoản chi cho hàng hóa này tính trên đầu người của Việt Nam ở mức hơi phải chăng so với nhiều đất nước tương đốic, khoảng 30-40 USD mỗi người trên năm, so với mức 96 USD của các nước đang tăng trưởng và 186 USD của toàn cầu.
Nhờ vậy, IMS Health từng đưa ra dự đoán hăng hái về tốc độ tăng trưởng kế quả kinh doanh của các tổ chức dược Việt Nam, khi xếp Việt Nam đứng thứ 2 trong đội ngũ các đất nước mới nổi sau Argentina, cao hơn cả Trung Quốc và các đất nước tương đốic trong gianh giới ASEAN.
Theo báo cáo mới ban bố của Business Monitor International (BMI), tốc độ tăng trưởng bình quân của ngành nghề dược Việt Nam công đoạn 2015 – 2018 đạt khoảng 16% mỗi năm, với kế quả kinh doanh toàn thị phần sẽ tiệm cận mức 10 tỷ USD.
Tuy nhiên, với điều kiện hiện nay, Việt Nam cũng chỉ được xếp vào đội ngũ 3 trên địa bàn dược toàn cầu, thuộc đội ngũ 17 nước có ngành nghề công nghiệp dược đang tăng trưởng (pharmerging countries). Nguyên nhân đến từ việc không đủ tiềm lực tự phát minh thuốc mới và chỉ 1 số ít tổ chức có khoa học tiếp cận với các căn cứ cao EU – GMP hay PIC/S.
Từ thực trạng này, gần 55% nhu cầu dược phẩm trong nước phải đáp ứng bằng nguồn du nhập, trong đó phải nói đến 1 lượng lớn là các loại biệt dược – thuốc có bản quyền phát minh (patent drug), với tầm giá đắt đỏ do chẳng thể cung ứng trong nước.Năm 2016, Việt Nam du nhập khoảng 2,5 tỷ USD dược phẩm thì riêng các hàng hóa biệt dược được du nhập chính yếu từ 3 nước Pháp, Đức và Mỹ đã chiếm gần 200 triệu USD.
![]() |
Hàng trăm triệu USD biệt dược được du nhập về Việt Nam mỗi năm. |
Từ đây, nguồn du nhập chính được phân chia rõ rệt theo phân khúc hàng hóa, trong đó gianh giới châu Âu (Pháp, Đức, Anh, Thụy Sĩ) và Mỹ chính yếu là các hàng hóa biệt dược, khi mà Ấn Độ và Trung Quốc là các hàng hóa thuốc giá phải chăng.
Dược phẩm generic – loại thuốc mô hình theo thuốc có bản quyền phát minh (patent drug) sau khi hết hạn bảo hộ quyền, cũng là 1 phân khúc đang trỗi dậy mạnh mẽ trong những năm vừa mới đây nhờ ưu thế về giá. Đây cũng là dòng hàng hóa ở mức cao nhất mà các tổ chức Việt có thể cung ứng.
Theo FTPS, về basic dược phẩm sẽ đến tay bệnh nhân theo 3 con con đường trung gian chính là đấu thầu vào bệnh viện (ETC), trực tiếp qua nhà thuốc/phòng mạch hoặc qua chợ bán thuốc sỉ. Trong đó ETC là kênh chủ lực mà các doanh nghiệp cung ứng, nhà du nhập, cung ứng hướng tới.
Với số lượng hơn 13.000 bệnh viện, phòng tương đốim đa khoa, trạm y tế, việc tiêu thụ qua kênh này giúp bảo đảm kế quả kinh doanh cho các doanh nghiệp cung cấp. Báo cáo của Công ty chứng khoán Maybank Kim Eng (MBKE) cũng cho biết, hơn 70% tổng chi thuốc cả nước (khoảng 3 tỷ USD) được đóng góp qua kênh này.
Tuy nhiên, quy định tuyển chọn thuốc trúng thầu bắt đầu với Thông tư 01 (hiệu lực 1/6/2012) của Bộ Y tế theo tiêu chí dành đầu tiên “giá phải chăng” khiến cho kênh ETC vốn đã khó khăn lại càng thêm ác liệt. Đồng thời cũng tạo ra nhiều bất cập và khiến méo mó trong công việc điều hành quan hệ lâu dài thuốc và đấu thầu thuốc. Nhiều tổ chức lớn trên thị phần này đã bị các đối thủ vô danh đánh bật chỉ sau chưa tới 1 năm vận dụng.
“Thông tư 01/2012 khi vận dụng đã vấp phải nhiều phản chiếu về hiện trạng thuốc trúng thầu tuy có giá phải chăng nhưng quan hệ lâu dài rất kém”, báo cáo của Công ty chứng khoán Rồng Việt viết.
Đơn cử như dược phẩm generic – phân khúc đang tăng trưởng mạnh tại Việt Nam. Cũng giống như nhiều mặt hàng tương đốic, quan hệ lâu dài các thuốc Generic không hoàn toàn giống nhau mà phụ thuộc vào chuyên môn khoa học và định hướng buôn bán của từng tổ chức dược phẩm.
Theo FPTS, mặc dầu generic được cung ứng với cùng hoạt chất chính theo công thức chung nhưng sự dị biệt sẽ được tạo ra giữa quan hệ lâu dài hoạt chất chính và khoa học tá dược – thành phần không có tác dụng chữa bệnh nhưng đóng vai trò không được lãng quên “dẫn con đường” và “điều tiết”. Để cung ứng thuốc generic giá phải chăng, nhiều tổ chức dược phẩm hài lòng tiêu dùng nguồn nguyên liệu quan hệ lâu dài phải chăng và tầm giá phải chăng (từ Ấn Độ hoặc Trung Quốc) để khó khăn về giá, dù hiệu quả điều trị không cao.
Nhiều tổ chức dược nội địa cung ứng generic với định hướng hội tụ vào quan hệ lâu dài đã bởi thế mà “thất thủ” trên thị phần đấu thầu thuốc bệnh viện, 1 trong số đó có thể nói đến Công ty Dược phẩm Imexpharm.
Đặt trọng tâm vào các hàng hóa tương đốing sinh, Imexpharm là 1 trong số ít tổ chức dược Việt Nam đi theo định hướng quan hệ lâu dài, từ nguồn nguyên liệu cho tới việc nâng cấp các nhà máy từ căn cứ WHO – GMP lên EU – GMP. Trước công đoạn 2012, tỷ trọng bán hàng của Imexpharm tương đối thăng bằng giữa kênh đấu thầu bệnh viện (ETC) và kênh cung ứng OTC.
Tuy nhiên, sau khi Thông tư 01 của Bộ Y tế năm 2012 thành lập đã khiến cho Imexpharm rơi vào khủng hoảng, đột nhiên thể trụ lại tại kênh ETC.
Doanh thu qua kênh ETC của Imexpharm từ tỷ trọng gần 60% tổng kế quả kinh doanh năm 2012 giảm xuống đáy 13,4% sau đó 3 năm. Mặc dù đã tăng trở lại vào năm 2016 nhưng tỷ trọng vẫn chưa tới 1 phần ba so với quá trình trước.
Theo Công ty chứng khoán Rồng Việt (VDSC), do quy định dành đầu tiên về giá khi vượt 70 điểm tiêu chí khoa học của Thông tư 01/2012 đã khiến cho các hàng hóa của Imexpharm kém khó khăn hơn so với các đối thủ. Cũng bởi thế mà kế quả kinh doanh kênh đấu thầu bệnh viên của doanh nghiệp này giảm mạnh, dù các hàng hóa trọng tâm của doanh nghiệp là tương đốing sinh – vốn là hàng hóa giữ vai trò chính trong các đơn thuốc.
Mặc dù kỳ vọng đang trở lại với tổ chức cung ứng dược này khi các quy định sửa đổi về đấu thầu thuốc (thông tư 36/2013, thông tư 31/2014 và thông tư 11/2016) tạo hiện trạng thăng bằng hơn giữa giá và quan hệ lâu dài. Tuy nhiên, để khôi phục vị thế trên thị phần ETC với Imexpharm cũng không phải chuyện đơn thuần.
Theo Tổng cục Hải quan, tính đến hết 15/8, Việt Nam đã chi 1,7 tỷ USD du nhập dược phẩm, tăng 5,8% so với cùng kỳ năm ngoái (1,6 tỷ USD). Có 5 thị phần du nhập dược phẩm đạt trị giá kim ngạch từ 100 triệu USD trở lên, chiếm 46,6% kim ngạch du nhập dược phẩm cả nước trong cùng thời điểm. Đức hiện xếp vị trí trước tiên với kim ngạch đạt 187,7 triệu USD. Tiếp theo là Pháp với 180 triệu USD, Ấn Độ là 164,4 triệu USD, Hàn Quốc là 111 triệu USD, Italy là 102,5 triệu USD. Cũng theo thống kê, năm 2016 Việt Nam chi 2,563 tỷ USD du nhập dược phẩm (nếu tính riêng cùng kỳ năm ngoái là 1,6 tỷ USD). Con số này ở các năm 2014, 2015 tuần tự là 2,035 tỷ USD và 2,32 tỷ USD. |
Minh Sơn