Chủ tịch Hiệp hội Năng lượng Việt Nam Trần Viết Ngãi san sẻ hướng lớn mạnh nguồn năng lượng sạch trong các năm tới.
– Trong khoảng 3 năm tới, Việt Nam phải sắm ra các nguồn điện để bổ sung sản lượng điện thiếu khoảng 100 tỷ kWh. Theo ông cần phải làm cho gì để bổ sung các nguồn điện thiếu ngày nay?
– Vừa qua, Hiệp hội Năng lượng Việt Nam đã công ty hội thảo về lớn mạnh thủy điện vừa và nhỏ và năng lượng tái hiện với sự tham dự của lãnh đạo Bộ Công Thương, các bộ ngành nghề và lãnh đạo nhiều địa phương. Hiện nay, lưới điện Việt Nam lớn mạnh càng ngày càng lớn và có tốc độ lớn mạnh nhanh nhằm đáp ứng nhu cầu điện năng tăng trưởng nhàng nhàng mỗi năm từ 11% đến 12%. Đây là sức ép rất lớn với ngành nghề điện.
Vấn đề cần tính toán kỹ là tôi và mọi người đã bỏ làm cho điện nguyên tử với công suất 4.000 MW trong bối cảnh nguyên liệu hóa thạch dần cạn kiện và chỉ còn cách là lớn mạnh các nguồn năng lượng tái hiện.
Hiện các nguồn thủy điện công suất lớn, tôi và mọi người đã khai thác hết. Còn những công trình thủy điện nhỏ thì có 400 công trình loại khỏi quy hoạch. Tuy nhiên, theo Hiệp hội Năng lượng Việt Nam, tôi và mọi người vẫn nên làm cho công trình nào có hiệu quả kinh tế cao, đáp ứng được nguồn điện cung cấp cho nguồn điện quốc gia và không gây tác động đến môi trường rừng hay bản đồ hạ du và có mục tiêu tái định cư cho người dân tốt.
![]() |
Ông Trần Viết Ngãi – Chủ tịch Hiệp hội Năng lượng Việt Nam. |
– Các công trình thủy điện nhỏ này nên cho triển khai thế nào để đáp ứng được yêu cầu an toàn, hiệu quả và lâu dài?
– Trước tiên các địa phương cần lập lại danh sách các công trình có năng lực coi xét. Tuy nhiên, cần giảm thiểu làm cho những công trình nằm trong lõi rừng, có công suất quá nhỏ cũng như công trình chặt phá rừng nhiều.
Những công trình liên đới đến tái định cư nhiều người dân cũng cần cân nhắc không nên cho làm cho. Còn những công trình mang lại hiệu quả kinh tế, tỷ lệ hoàn vốn tốt, có năng lực cung ứng nguồn cho bộ máy lưới điện quốc gia hoặc có năng lực cung ứng điện cho 1 bản đồ, địa phương thì nên cho phép làm cho.
Theo tính toán của Hiệp hội Năng lượng Việt Nam, tôi và mọi người có thể triển khai 300-400 công trình với công suất 7-30MW mỗi công trình. Như vậy, tổng công suất đã đạt 3.000-4.000 MW, tương đương khoảng 15 tỷ kWh mỗi năm.
Thủy điện có lợi thế bởi nguồn phát chỉ là nước, khác với năng lượng gió và mặt trời vốn phụ thuộc nhiều vào gió và nắng. Trong khi quốc gia vẫn còn nghèo, còn thiếu nguồn cung cấp năng lượng, việc có thêm dù chỉ 1 MW, miễn là các nguồn năng lượng sạch, không tác động đến môi trường sống của con người, thì nên cho triển khai.
– Theo ông, tại sao không cho làm cho các công trình thủy điện trong lõi rừng?
– Vì các công trình này phải làm cho tuyến phố vào, phải phá rừng. Với những công trình được phép triển khai, việc giám sát trồng bù rừng cũng là việc không thể lãng quên.
Các công trình thủy điện nhỏ muốn triển khai cần có sự giám sát chặt chẽ từ khâu khuyên bảo, các thủ tục dò la, bề ngoài, lập công trình cũng cần được duyệt 1 cách kỹ lưỡng và chặt chẽ. Khi đó sẽ giảm thiểu được những rủi ro có thể xảy ra.
– Nhiều quan điểm cho rằng, cần thúc đẩy lớn mạnh năng lượng tái hiện tại Việt Nam. Tuy nhiên, những loại năng lượng này tầm giá lại rất cao. Vậy tôi và mọi người cần khắc phục bài toán thăng bằng thế nào?
– Hiệp hội Năng lượng Việt Nam đã có phân tách về việc các nguồn năng lượng điện gió, mặt trời, sinh khối có tầm giá cao do phần lớn các thiết bị như pin mặt trời, bộ máy điều khiển, bộ lưu điện… đều phải nhập từ nước ngoài.
Hiện ở Trung Quốc, tầm giá điện mặt trời của họ chỉ còn 4-5 cent 1 kWh. Tại đô thị Nam Ninh, họ có vài chục hạ tầng cung ứng các thiết bị, pin mặt trời. Ở Việt Nam cũng có nguyên liệu để cung ứng pin mặt trời, không phải du nhập.
Vì vậy, tôi và mọi người cần có chủ trương cho chế tác các thiết bị, nguyên liệu, phụ kiện cho năng lượng tái hiện, duyệt y thành lập 1 loạt các khu công nghiệp chế tác các hàng hóa phụ trợ liên đới. Khi đó tầm giá sẽ giảm rất nhiều.
Hiện đã có hơn 17.000 MW điện mặt trời được các nhà đầu tư đăng ký làm cho ở Việt Nam. Với cơ chế chính sách thích hợp, Việt Nam có thể cung ứng các thiết bị cho năng lượng sạch để dùng cho thị phần trong nước cũng như xuất khẩu.
Một nhà máy nhiệt điện công suất 1.200 MW có vốn đầu tư lên tới hơn 1 tỷ USD. Vì vậy việc lớn mạnh cộng tác, tận dụng lớn mạnh được thủy điện vừa và nhỏ và năng lượng tái hiện sẽ giúp giảm gánh nặng đầu tư cho quốc gia.
![]() |
Nhà máy thủy điện Trị An. |
– Theo ông cần phải làm cho gì để lớn mạnh các nguồn năng lượng tái hiện tại Việt Nam?
– Thứ nhất, tôi và mọi người cần sớm công ty lập quy hoạch về lớn mạnh năng lượng tái hiện với sự tham dự của các nhà khuyên bảo, các chuyên gia kỹ thuật bậc nhất. Cơ quan khuyên bảo này sẽ hỗ trợ lập quy hoạch, đo gió, đo bức xạ mặt trời, tính toán năng lượng sinh khối.
Bên cạnh đó, Việt Nam cũng cần có chủ trương vun đắp 1 đến hai khu kỹ thuật cao cung ứng chế tác thiết bị công nghiệp và các thiết bị năng lượng, đặc thù là thiết bị về năng lượng tái hiện.
Việc hỗ trợ nguồn vốn để hình thành các khu kỹ thuật cao này là không thể lãng quên vì khi tôi và mọi người tự cung ứng được vật tư, thiết bị với quy mô đủ lớn sẽ giúp chủ động về vật tư, thiết bị đồng thời giảm tầm giá suất đầu tư. Khi đó, tầm giá điện của năng lượng tái hiện sẽ giảm.
Việc hỗ trợ quỹ đất cho các công ty đầu tư, hỗ trợ về thuế, có thể miễn hoặc giảm những năm đầu, và điều chỉnh giá điện gió, điện sinh khối, sẽ giúp có thêm nhiều nhà đầu tư vào lĩnh vực này, giúp nâng tỷ lệ năng lượng tái hiện trong các năm tới.
Huệ Chi